13 Tháng Mười, 2024

Chỉ tự do mới chấn hưng được văn hoá

Triệt tiêu văn hóa miền Nam sau năm 1975: Đốt sách, cầm tù trí thức, độc chiếm xuất bản. Những thiệt hại không thể phục hồi, kéo lùi nền tri thức của đất nước.

Chỉ tự do mới chấn hưng được văn hoá
Văn hóa là văn hóa, không nên gán chính trị, giai cấp, tư tưởng vào văn hóa.

By Đoàn Bảo Châu • 25 Aug 2024

Cuối năm 2023, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đưa ra đề xuất chấn hưng văn hóa với số tiền 350.000 tỷ đồng.

Theo Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL Đoàn Văn Việt, chương trình này gồm 10 thành phần: “Chương trình mục tiêu quốc gia có 10 nội dung thành phần. Đó là: Phát triển văn hóa, con người Việt Nam; phát triển hệ thống hạ tầng, cảnh quan, thiết chế văn hóa đồng bộ; nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục; bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc; thúc đẩy văn học, nghệ thuật; phát triển công nghiệp văn hóa; đẩy mạnh chuyển đổi số; phát triển nguồn nhân lực văn hóa; hội nhập quốc tế; tăng cường giám sát, đánh giá thực hiện chương trình”.

Ông cũng nói, “Việt Nam hiện nay hầu như vắng bóng tác phẩm tầm khu vực và thế giới. Ngành Văn hóa mong muốn đầu tư sáng tác để có những tác phẩm đỉnh cao, tầm cỡ, mang sức sống thời đại, nhất là trong văn học, nghệ thuật, hội họa”.

Trong bài viết này, tôi muốn đưa ra những lý do cần thiết để văn hóa có thể phát triển. Nếu không nhìn thấu đáo những đặc tính của văn hóa và hiểu được quy luật phát triển của văn hóa, thì số tiền đổ vào sẽ chỉ là một sự lãng phí vô ích.

Tự do tư tưởng
Tự do trong tư tưởng là nền tảng cần thiết để cái “cây” văn hóa vươn cao, tỏa bóng và nở hoa rực rỡ.

Văn hóa là một khái niệm rất rộng, bao gồm hệ thống các giá trị, truyền thống, tập quán, hành vi và sản phẩm sáng tạo của con người trong một cộng đồng, như ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục, lối sống, và các mối quan hệ xã hội.

Chính vì vậy, văn hóa định hình cách con người nhìn nhận thế giới, xác định đúng sai trong xã hội, nên nó có một mối quan hệ phức tạp và đa chiều đối với sự quản trị xã hội.

Văn hóa có thể được ví như một cái cây, một cơ thể sống với nhiều tỷ tế bào luôn vận động không ngừng nghỉ. Các tế bào luôn có nhu cầu trao đổi, học tập, so sánh và biến đổi để phát triển. Văn hóa phát triển mạnh mẽ hay không phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường chính trị nơi nó tồn tại.

Nói cách khác, những nhà quản lý văn hóa phải là những người hiểu biết và trân trọng văn hóa mới có thể giúp cái cây văn hóa phát triển rực rỡ.

Trong một xã hội mà chính quyền muốn kiểm soát mọi khía cạnh của cuộc sống, văn hóa sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn.

Văn hóa giống như một cái chuông hay dây đàn, cần một khoảng không để rung động và phát ra âm thanh. Nếu ta chạm vào chuông, vào dây đàn, hay cho chúng một khoảng không quá hẹp, âm thanh sẽ bị câm, tắc nghẹn hoặc không phải là tần số thực của chúng.

Việt Nam đã có những thay đổi tích cực về quản lý văn hóa nếu so sánh với 50, 60 năm trước, nhưng nếu thực sự muốn có những bước tiến mới, rất cần thay đổi tư duy về văn hóa.

Nếu bị áp đặt một cách cứng nhắc, mọi thứ đều phải phục vụ hệ tư tưởng cộng sản thông qua bộ máy truyền thông rập khuôn, giáo dục giáo điều và kiểm duyệt rập khuôn thì văn hóa và nghệ thuật sẽ rất khó phát triển.

Văn hóa là phương tiện qua đó cá nhân và cộng đồng thể hiện bản sắc, giá trị và trải nghiệm của mình.

Văn hóa vốn dĩ năng động, phát triển theo thời gian khi các xã hội tiếp xúc với những ý tưởng, công nghệ và thách thức mới.

Sự thịnh vượng của văn hóa phụ thuộc vào tự do khám phá, sáng tạo và chia sẻ các quan điểm một cách đa dạng.

Nhà văn, các nghệ sĩ luôn cần tự do để thể hiện ý tưởng, cảm xúc và quan điểm mà không sợ bị kiểm duyệt hoặc trừng phạt. Tự do có thể nói như ánh nắng, như oxy để cái cây văn hóa phát triển mạnh mẽ, phong phú như những nhánh cành ra nhiều hướng

Tư duy cứng nhắc trong giáo dục ở Việt Nam đã tạo ra những bài văn mẫu. Văn học là nghệ thuật, là một mảng quan trọng của văn hóa không thể bị định hình cứng nhắc và khô khan như công thức toán học, điều này đã và sẽ giết chết tư duy sáng tạo và cái riêng của học sinh. Với cách dạy văn như vậy, Việt Nam không thể có được những nhà văn lớn.

“Thời của thánh thần” của Hoàng Minh Tường, cuốn tiểu thuyết hiếm hoi đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm như Cải cách Ruộng đất, Nhân văn – Giai phẩm, thuyền nhân vượt biên. Ảnh: Văn Việt.

Sự dũng cảm khi quản lý văn hóa

Chính bởi văn hóa là một cơ thể sống, luôn có xu hướng vươn về mọi hướng, nên những nhà quản lý rất cần sự dũng cảm khi chăm sóc cái “cây” văn hóa. Sự quản lý cứng nhắc của chính quyền đã bỏ lỡ những tác phẩm văn học tầm cỡ.

Việt Nam không có một tác phẩm lớn nào về cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất, được gọi là một phong trào long trời lở đất với vô số bi kịch nhưng mới chỉ có được vài tác phẩm.

Cuộc chiến (1955-1975) nếu được nhìn với một con mắt đa chiều, nêu ra những thiệt hại to lớn, sự đau khổ, mất mát, hy sinh, thiệt thòi và hy vọng của dân tộc ở cả hai phía thì sẽ có được nhiều tác phẩm lớn hơn. Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiêu diệt tư sản mại bản, lấy tài sản của họ một cách vô lý là những đề tài hầu như chưa được khai thác.

Cuộc sống trong các trại cải tạo sau năm 1975 là một mảng văn học nếu được nhìn với con mắt công bằng và khoa học của lịch sử thì sẽ có khả năng cho ra đời những tác phẩm rất lớn.

Tiếc thay, những tác phẩm này không được “bên thắng cuộc” tiếp nhận. Phong trào Nhân văn – Giai phẩm còn là một mỏ vàng mới chỉ được khai thác trên bề mặt.

Trong tương lai, những tác phẩm về phong trào dân chủ và nhân quyền sẽ đóng một vai trò quan trọng trong dòng chảy văn học của Việt Nam nhưng cũng sẽ rất khó để chính quyền hiện nay có được một góc nhìn cởi mở và công tâm về mảng này.

Nếu những nhà văn được phép khai thác về thời kỳ được coi là “nhạy cảm” này, họ sẽ có được những chất liệu đặc biệt và có thể tạo ra những tác phẩm sâu sắc, giàu tư liệu lịch sử, và như vậy mới mong muốn được “thi đấu” trên văn đàn quốc tế.

Chính vì thiếu lòng dũng cảm, cách nhìn nhận những vấn đề lịch sử cũng không được khoa học.

Lịch sử là lịch sử, nói lên cái sai lầm của lịch sử một cách thẳng thắn không làm chính thể hiện tại yếu đi, mà ngược lại, nó thể hiện bản lĩnh và cách nhìn thoáng đãng và mạnh mẽ về lịch sử.

Trung Quốc, vốn được nhiều người coi là bảo thủ và khắc nghiệt hơn Việt Nam về quản lý văn hóa, nhưng so với Việt Nam, họ vẫn có một cái nhìn thoáng và khoa học hơn. Họ dám cho ra đời các tác phẩm được coi là nhạy cảm như tiểu thuyết “Phải Sống” của nhà văn Dư Hoa, sau được đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành phim. Tác phẩm này mô tả cuộc sống của một gia đình Trung Quốc trong thời kỳ Cải cách Ruộng đất, Đại Nhảy Vọt và Cách mạng Văn hóa.

Hay như “Bá Vương Biệt Cơ”, được coi là tác phẩm điện ảnh để đời của đạo diễn Trần Khải Ca, miêu tả sự khốc liệt của những số phận con người trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa.

Nói như vậy để thấy rằng, chuyện một vài cán bộ ngồi một chỗ trong phòng lạnh rồi phác thảo ra một kế hoạch để chấn hưng văn hóa là điều gần như không có nghĩa lý gì.

Văn hóa gắn liền với cuộc sống, mà cuộc sống thì mênh mông như biển cả, trải nghiệm cá nhân của các thành viên trong xã hội cũng như hàng tỷ tỷ sinh vật sống trong ấy, vô cùng rộng lớn và phong phú.

Văn học, nghệ thuật hay văn hóa nói chung chỉ có giá trị khi nó đặc tả những trải nghiệm riêng tư.

Trong khi ấy, những người cầm quyền của chế độ xã hội chủ nghĩa lại luôn kêu gọi tính đảng và rập khuôn theo kiểu xây dựng mẫu hình “con người mới xã hội chủ nghĩa”.

Cách tư duy như vậy không khác nào muốn bắt tất cả những sinh vật trong đại dương mênh mông vào một cái chậu nhỏ bé, chật hẹp, được dán nhãn là văn hóa, văn học hay nghệ thuật xã hội chủ nghĩa.

Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 26-10-1975. Chụp lại từ microfilm. Nguồn: tranhoaithu42.com.

Tính công bằng trong quản lý văn hóa

Chính bởi văn hóa là một cơ thể sống với hàng tỷ tế bào, mỗi tế bào lại có một cuộc sống với màu sắc riêng, nên những người quản lý văn hóa rất cần công bằng, không được cực đoan.

Văn hóa là văn hóa, không nên gán chính trị, giai cấp, tư tưởng vào văn hóa.

Sự việc chính quyền đốt sách của các tác giả miền Nam sau khi Việt Nam thống nhất là một việc đáng tiếc vô cùng. Biết bao tác phẩm, sản phẩm trí tuệ của những nhà văn giỏi đã bị tiêu hủy.

Sự cực đoan còn lan sang cả lĩnh vực âm nhạc khi nhiều bài hát của những nhạc sĩ miền Nam bị cấm. Rất may là trong lĩnh vực âm nhạc, có cấm thì tác phẩm vẫn tìm được con đường để sống sót. Giờ đây, có bao nhiêu nhạc phẩm nhạc miền Nam xưa được ưa chuộng trên khắp cả nước. Một ví dụ là dòng nhạc Bolero vốn được coi là nhạc vàng, là uỷ mị, phản động giờ vẫn được ưa chuộng và ca hát rộng rãi.

Thực tế cho thấy dòng nhạc ấy không làm tâm hồn của người Việt ủy mị đi, nhưng ngược lại bản thân Bolero cũng không thể phát triển mạnh mẽ để lấn át các dòng nhạc khác. Mỗi dòng nhạc đều có thị trường riêng, phù hợp với một dạng tần số cảm thụ nghệ thuật của người nghe.

Tiếc thay, mảng văn học không may mắn như vậy. Những cuốn sách đã bị đốt đồng nghĩa với việc tác phẩm cũng bị mất khi tác giả của chúng không còn. Giá như những người cầm quyền vào thời kỳ ấy đủ lớn, đủ tầm văn hóa để dung nạp và biết giữ gìn giá trị văn hóa thì những tác phẩm văn học ấy sẽ góp phần làm cho nền văn học của chúng ta thêm phong phú và vạm vỡ biết bao nhiêu.

Tính công bằng trong quản lý văn hóa còn cần phải tách biệt giữa tác phẩm và tác giả. Không nên cứ tác giả nào có quan điểm chính trị trái với chính quyền thì tác phẩm của họ cũng bị tẩy chay.

Mỗi tác phẩm văn học đôi khi chẳng cần gắn với một hệ tư tưởng chính trị nào mà vẫn có thể là một tác phẩm lớn, một di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Đâu phải tất cả câu chuyện về tình yêu đều cần phải có tính đảng hay nhất định phải là tình yêu có định hướng xã hội chủ nghĩa?

Chỉ khi văn hóa có tự do, người quản lý văn hóa dũng cảm để văn hóa tự do phát triển và công bằng khi ứng xử với các sản phẩm văn hóa thì đề án chấn hưng văn hóa mới thực sự có hiệu quả.

Nguồn Luật Khoa Tạp Chí