Nhà văn Thảo Trường: “Nói năng tiếp xúc với nhau mà lúc nào cũng phải giữ thế thủ, lúc nào cũng phải đề phòng…Đời sống chúng ta đã bị chi phối bởi vật chất và nhất là đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến tranh xảo trá này…
Đỗ Trường – THẢO TRƯỜNG – NHỮNG MẢNH GHÉP CỦA CHIẾN TRANH
(Bài viết tặng nhà văn, người lính Trần Hoài Thư)
Khi đi sâu vào đọc, nghiên cứu văn học miền Nam, nhất là trang sách của những người lính cho ta nhiều điều thú vị về cả nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Sự phong phú về thể loại, ngôn ngữ, cùng tính thẩm mỹ mang dấu ấn cá nhân độc đáo ấy, như một luồng gió mới làm dịu đi cái không khí hừng hực của chiến tranh. Tuy còn một số hạn chế về kiểm duyệt in ấn, song tư tưởng, tính chân thực của nhà văn, và tác phẩm (hầu như) vẫn giữ được những giá trị ban đầu. Thật vậy, không phải đến khi chiến tranh bước vào giai đoạn khốc liệt, ta mới bắt gặp tư tưởng cùng cái nhìn khác về chiến tranh của những Trần Hoài Thư, hay Nguyễn Bắc Sơn… mà ngay từ đầu cuộc chiến nó đã đậm nét trên trang văn của người lính, nhà văn Thảo Trường: “Nói năng tiếp xúc với nhau mà lúc nào cũng phải giữ thế thủ, lúc nào cũng phải đề phòng…Đời sống chúng ta đã bị chi phối bởi vật chất và nhất là đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến tranh xảo trá này… Trong hoàn cảnh hiện nay nhìn đâu chúng ta cũng thấy địch. Địch như bủa vây chung quanh ta, địch đôi khi luẩn quất ngay trong chính ta” (sđd).
Sự hoài nghi, mâu thuẫn ấy, ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng Thảo Trường. Do vậy, tuy trực tiếp cầm súng nơi chiến trường, nhưng với ông đây là cuộc chiến vô nghĩa, và bẩn thỉu. Từ đó, Thảo Trường bóc trần bộ mặt thật từ ông Nga, Tàu cho đến cả ông Mỹ và sổ toẹt tuốt tuồn tuột nó:“Bộ cứ của Mỹ là không giả sao…Ông có vẻ tin tưởng vào mấy thằng cha đó hơi nhiều. Ông có biết không, Mỹ nó làm được… người giả nữa là rượu…Nó có thể chế ra được bất cứ cái gì. Nó có thể chế ra người máy, vệ tinh, phi thuyền, mà nó lại còn có thể chế ra tự do, dân chủ, độc lập. Nó chế ra được hết. Nó có thể chế ra được nó nữa…Ông đừng có tin ở tụi nó kỹ quá, có ngày nó chế ra được ông đấy”. (sđd)
Sinh năm 1936 với cái tên cúng cơm Trần Duy Hinh tại Nam Định, một trong những chiếc nôi của văn học dân gian. Cho nên, ngôn ngữ dân dã đi thẳng vào trang văn Thảo Trường như một lẽ tự nhiên vậy. Và cái chất trào phúng là một trong nghệ thuật xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông. Với những mâu thuẫn hiện thực ấy, Thảo Trường đưa vào tác phẩm của mình, tạo nên tiếng cười đau đớn, sự cảm thông sâu sắc, hay mỉa mai, châm biếm một cách chua cay. Có thể nói, Thảo Trường là một trong những giọng văn trào phúng tiêu biểu nhất của nền Văn học miền Nam, kể từ năm 1954 cho đến cả năm tháng tị nạn sau 1975. Với 17 năm cầm súng, cùng 17 năm tù cải tạo sau 1975 là vốn sống, là nguồn thực phẩm phong phú đã đẻ ra, và nuôi dưỡng những tác phẩm giá trị hiện thực Thảo Trường. Mất bởi ung thư gan vào mùa thu năm 2010 tại Hoa Kỳ, Thảo Trường để lại 22 tác phẩm, với nhiều thể loại cho nền Văn học Việt Nam. Có thể nói, đó là một gia tài đồ sộ của một đời văn. Thảo Trường viết văn ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Những truyện ngắn: Hương Gió Lướt Đi, Đò Dọc, hay Làm Quen… là thẻ thông hành đưa ông đến với làng văn. Nhưng phải đến tác phẩm: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp, mới thực sự khẳng định tên tuổi Thảo Trường trên văn đàn. Tuy nhiên, những tác phẩm cũng như thân phận Thảo Trường được chia cắt ra từng giai đoạn, gắn liền với những biến động cùng nỗi đau của đất nước. Với tôi, ba truyện ngắn (đều có tính trào phúng) tiêu biểu nhất về tư tưởng cũng như bút pháp cho những giai đoạn sáng tạo ấy của ông là: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp, Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào và Hộ Khẩu Ở Ngoại Thành.
*Nhà văn người lính một góc nhìn về chiến tranh.
Là người lính cầm súng, ngay từ những ngày đầu cuộc chiến, Thảo Trường đã thấy được đêm đen đang trùm lên hình đất nước. Bởi mảnh đất, con người nơi tận cùng của sự khốn khổ ấy đang bị chính những học thuyết, đảng phái ngoại lai quái đản giằng xé, và cưỡng hiếp: “Nhưng rồi những anh cán bộ lại ẩn hiện, lại mò mẫm rỉ tai trong đêm tối. Rồi đồn dân vệ lại nổ súng và cháy trụi. Ấp chiến lược thành ấp chiến đấu…Chị Tư lúc này đã trở nên một người biết tới hai chủ nghĩa: cộng sản và nhân vị. Chị có thể nói rất trôi chảy về những chủ nghĩa đó vì chị đã được nghe quá nhiều lần.“ (sđd). Vâng! Có thể nói, cái tư tưởng phản đối cuộc chiến ý thức hệ này của Thảo Trường được in đậm nét nhất trong truyện: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp. Nó là một trong những truyện ngắn hiện thực về chiến tranh hay nhất của ông. Bằng biện pháp tu từ – hoán dụ, hình ảnh (chị Tư) người phụ nữ có chồng tập kết, bị lôi kéo vào công việc binh vận và bị có thai, Thảo Trường đã mở ra cho ta thấy, cuộc chiến ý thức hệ xảo trá đi đến tận cùng của sự tàn nhẫn, và bẩn thỉu: “Chị tự hỏi “nó” là của ai? Của anh cán bộ hay anh binh sĩ truyền tin? Chị thẫn thờ cả người và chị muốn rời ngay cái chốn đó…Cái thai của ai cũng được, nhưng chị phải biết chắc là của người nào…“. Không dừng lại ở đó, sự khốn nạn ấy được đẩy lên cao hơn nữa, khi người cán bộ CS buộc chị Tư phải trèo lên treo khẩu hiệu và gài mìn. Nếu ta đã đọc Sông Sương Mù và Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh viết về hậu phương ở miền Trung xứ Huế, thì sẽ hiểu và đồng cảm hơn cho thân phận con người ở mảnh đất xôi đậu miền Tây Nam Bộ này. Thật vậy, sự hoài thai của Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp dù có mang dòng máu Cộng Sản, hay Cộng Hòa thì đó cũng là nỗi đau, sự giày vò thân xác người mẹ, hay thân xác của cả dân tộc này. Và trích đoạn dưới đây, không chỉ chứng minh tính hiện thực ấy, mà còn làm cho ta bật ra tiếng cười mỉa mai, chua xót về thân phận đất nước, con người, qua giọng văn trào phúng, hài hước của Thảo Trường:
“Chị tuột xuống thang trở vào nhà thay quần áo khác rồi trở ra ngồi ở bậc cửa nhìn lên tấm bảng khẩu hiệu “Đả đảo Đế quốc Mỹ.” Anh cán bộ mang hộ chị chiếc thang vào sau nhà…Chị Tư ứa nước mắt nhìn tấm bảng, nhìn anh ta, rồi chị dắt anh ta vào giường. Chị Tư đè ngửa anh cán bộ xuống rồi chị khóc nấc lên thành tiếng: “Tôi đây, tôi là của anh, nhà của tôi là của anh, cái bào thai này cũng là của anh. Nó phải là của anh!” Anh cán bộ ú ớ dưới ngực chị: “Nó là của Đảng! Tất cả là của Đảng!”
Và sự giằng xé, và mâu thuẫn đã đẩy bi kịch lên tột cùng, khi người Sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa trở lại, bắt chị Tư, người đàn bà mang thai phải tự trèo lên gỡ mìn, tháo cờ. Sự xâu xé, và hành hạ con người, đất nước trong cái vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát như vậy, làm cho người đọc phải giật mình kinh sợ. Là kẻ sinh sau đẻ muộn, rất may mắn không phải lao vào cuộc chiến này, cho nên cái bi hài đó, nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Và dường như, không thể tin vào điều đó, nên có những giả thiết gợn lên trong tôi: Lẽ nào, Thảo Trường đã nhân cách hóa tính cách, hành động của nhân vật? Nhưng có một người lính viết văn bảo: Chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra… Và tôi cứ tin là vậy. Rồi Thảo Trường đã làm nguội chiến tranh, khi mở thắt nút của bi kịch bằng hình ảnh người Sĩ quan Cộng Hòa tự tay đỡ đẻ, và khai sinh cho đứa trẻ mang dòng họ của mình, làm cho tôi thở phào nhẹ nhõm. Cảm ơn Thảo Trường đã mở ra một lối thoát, và cho ta thấy tình người vẫn lóe lên ở đâu đó ở trong cuộc chiến này:
“Chị Tư bị động thai. Người sĩ quan bế chị vào nhà đặt nằm trên giường săn sóc cho chị…Gần sáng chị Tư sinh một đứa con trai thiếu tháng. Người sĩ quan đỡ đẻ cho chị, anh ta làm công việc đó rất chăm chỉ. Đứa bé khỏe mạnh khóc lên những tiếng làm cho anh ta vui ra mặt. Hắn luôn luôn sờ trán chị Tư. Chị đã tỉnh và mỉm cười với hắn. Hắn cười lại… Mấy hôm sau, người sĩ quan đến hội đồng xã…làm khai sinh cho đứa bé. Hỏi cha nó đâu, chị Tư lắc đầu trả lời không có, nên người sĩ quan bèn khai cho nó mang họ của ông ta…”
Không dừng lại ở đó, lời nhắn thay cho đoạn kết của: “Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp” đã mở ra một thiên truyện khác, mang tên Khẩu Hiệu vào năm 1993, với cái chết sau 15 năm của người sĩ quan ấy, ở nhà tù cải tạo miền núi phía Bắc, bằng tài năng liên tưởng độc đáo của Thảo Trường.
Có thể nói, ở những năm đầu thập niên sáu mươi Thảo Trường viết khỏe, có nhiều truyện ngắn hay với cùng một đề tài này. Nhãn Hiệu Mỹ, cũng một truyện ngắn như vậy. Vẫn đi sâu vào khai thác đề tài về cuộc chiến ý thứ hệ, đưa đến nỗi thống khổ cho đất nước, và con người. Lời văn tuy mộc mạc, hồn nhiên trong sáng, nhưng Thảo Trường đã gợi cho độc giả nhiều suy nghĩ. Cũng như nhà văn Trần Hoài Thư, Lữ Quỳnh, hay một số nhà văn khác, với đề tài trên, ở thời điểm đó được cho là nhạy cảm, phạm húy. Do vậy, khi in ấn xuất bản Nhãn Hiệu Mỹ của Thảo Trường đã bị đổi tựa thành: Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục, và cắt bỏ một số từ ngữ, câu văn. Tất nhiên, sau này tái bản ở nơi hải ngoại, các bác đều trả nó về nguyên gốc. Và coi đó là một vết thương đã đóng sẹo trên một tác phẩm văn học thời chiến vậy thôi, như có lần nhà văn Trần Hoài Thư đã nói vậy với tôi. Viết ra điều này để thấy rằng, văn thơ trên xứ Việt ta kể cũng lạ, ở thời kỳ nào, chế độ nào cũng vậy, không ít thì nhiều, kiểu chó gì cũng bị sờ nắn, cắt thiến.
*Thân phận tù đày, với những khát vọng, tính nhân bản qua giọng văn trào phúng.
Khi đọc, và nghiên cứu về các nhà văn miền Nam mặc áo lính, thấy sau 1975 bác nào cũng bị tù đày cải tạo mút mùa cả. Với14 năm của Phan Nhật Nam, tưởng thế đã kinh, song không ngờ, 17 năm (đến kịch đường tàu) của bác Thảo Trường làm cho người đọc vãi cả linh hồn. Chẳng biết, cái “nhà trường” ấy có gọt rửa, tẩy não được gì các bác không? Chứ riêng Thảo Trường sau 17 năm “tốt nghiệp ra trường” cái chất trào phúng trong văn chương còn đặc sắc, sâu cay hơn là đằng khác. Thật vậy, Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào là một truyện ngắn như vậy của ông. Với tôi, đây là truyện ngắn hay nhất trong số những tác phẩm của ông mà tôi đã được đọc. Và nó cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về tâm lý, thân phận người tù của các nhà văn sau 1975. Đây là câu chuyện có nhiều tình tiết, nhân vật đủ chất liệu làm nên một trường thiên tiểu thuyết. Tuy nhiên, Thảo Trường đã nén thành một truyện ngắn, song người đọc vẫn không cảm thấy chật chội. Âu đó là cái tài của nhà văn vậy. Dù có bị đày đọa nơi địa ngục, sức sống khát khao của con người vẫn nhen nhúm ở đâu đó. Và cái tình yêu, sức mạnh ấy cho nữ tù nhân đủ can đảm gieo một mầm sống con người. Đoạn văn mang tính trào phúng trong “Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào” dưới đây, không chỉ cho thấy trí tưởng phong phú, với những hình ảnh so sánh sinh động, mà Thảo Trường còn buộc ta phải bật ra tiếng cười chua chát:
“Thế rồi chị tính toán theo ý chị. Chị sẽ không mặc đồ lót. Chị sẽ mặc một cái quần mỏng mở chỉ hở dưới đáy. Cái quần cũng được luồn giây thun nhẹ. Chị thử kéo lên tuột xuống thấy nhẹ thì rất ưng ý. Chị cũng thử khom khom lưng và nghĩ làm sao cho anh được dễ dàng nhanh chóng, phải tạo điều kiện thuận tiện nhất cho anh hành sự. Thời gian không có nhiều. Tất cả chỉ trong nhấp nháy. Chớp mắt là phải xong. Thời giờ là vàng bạc. Cái này cũng giống như chiến thuật mà các anh cán bộ cách mạng hay khoe: “đánh mạnh, đánh mau, rút lẹ”. Phải dùng sách của các anh mới được. Sách của giới giang hồ chúng tôi là bắn chậm thì chết. Lớ ngớ còn đang thập thò mà các anh bắt được thì tù mọt gông. Chị cũng bàn trước với anh để về phần anh cũng phải chuẩn bị không để một cái gì cản trở, như Mỹ họ lắp ráp phi thuyền trên vũ trụ ấy, như pháo binh nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, như cán bộ vẫn leo lẻo “tư tưởng thông hành động đúng” ấy, anh hiểu chưa, khổ quá! Phải tập cho thuộc để khi có dịp là bập liền nghe chưa anh yêu!”
Thành thật mà nói, đọc “Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào” với những từ ngữ câu chửi của kẻ quản giáo, khi nữ tù nhân đã mang thai, dù có bịt tên Thảo Trường đi, tôi vẫn nhận quê quán, sinh trưởng của tác giả. Bởi, cái lời văn, ngữ điệu hơi bị đanh đá, dường như chỉ có ở vùng quê Nam Định, Thái Bình. Câu cú, và cái ngữ điệu địa Phương này, làm cho truyện tăng thêm tính chân thật và sinh động hơn: “Địt mẹ mày, mày có biết mày đang ở tù không? Cái thân mày nhà nước còn phải nuôi, bây giờ mày nói mày nuôi con mày. Vậy lấy cái máu đẻ mà nuôi à? Mày có biết mày sướng có một tý mà bao nhiêu người khổ vì mày không?”. Vẫn trong vai trò người dẫn truyện, Thảo Trường đi sâu vào trần thuật, với từ ngữ dân dã, thông qua hình ảnh ẩn dụ đôi dép của người quản tù:“Hắn đạp dép bình trị thiên lên mặt chị… hắn giẫm cái dép kháng chiến vào bụng chị”. Nó bóc trần cái bộ mặt thật của cái chủ thuyết huyễn tưởng bấy nay hòng che đậy. Tôi đã đọc khá nhiều trang sách đủ loại viết về những năm tháng tù đày sau 1975, nhưng rất ít tác giả viết trần trụi như truyện ngắn này của Thảo Trường. Và hình ảnh tra tấn tàn nhẫn, đê tiện, bỉ ổi của gã quản giáo dường như vượt quá sức tưởng tượng, cũng như sức chịu đựng của con người:
“hắn để cái đèn pin đứng chĩa thẳng lên trần, ánh sáng đèn dội xuống đủ cho chị nhìn thấy hắn là cán bộ giáo dục, hắn cũng đội mũ kết… cũng phù hiệu đỏ của ngành công an nhân dân… cũng sao thượng uý trên cổ áo… cũng mang dép râu ở chân… Hắn đạp dép bình trị thiên lên mặt chị… hắn giẫm cái dép kháng chiến vào bụng chị… chị co mình ôm lấy bụng che chở cho cái bào thai, hắn bèn đạp thí mạng lên người chị, chỗ nào cũng được. Đau quá chị la lên hắn bèn cúi xuống vả vào mồm chị, đấm vào mắt chị nẩy đom đóm, hắn nhổ nước bọt vào mặt chị, hắn chửi “địt mẹ” um sùm. Rồi hắn vạch quần chĩa cái dương vật đen đủi lủng lẳng đái tè tè vào mặt chị làm chị sặc sụa. Chị lợm cổ ói mửa ra nước mật đắng. Chị ngộp thở và khóc oà nức nở. Hắn vẩy vẩy con cu cho những giọt nước đái chót văng xuống rồi mới nhét vào trong quần.”
Có thể nói, tính nhân bản là một trong những đặc điểm làm nên tên tuổi nhà văn Thảo Trường. Dù trong lao tù đói khát, cái tình thương bác ái, sự sẻ chia vẫn in đậm trên trang văn, và trong cuộc sống của ông. Hình ảnh những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong tù dưới ngòi bút Thảo Trường dường như, không dừng lại là những nạn nhân, mà nó đã mở ra một khát vọng, sức sống của con người, mà không có chủ thuyết nào, chế độ nào có thể giam cầm và dập tắt. Và đó cũng là chữ “nhân” cao cả nhất trong tư tưởng, và thơ văn của Thảo Trường muốn chuyển tải đến người đọc. Ta hãy đọc lại đoạn kết của truyện ngắn “Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào” có lời văn rất đẹp, với cái tâm tĩnh của nhà văn, người tù đi qua 17 năm:
“Kẻng vào phòng đổ hồi, ba đứa trẻ cũng rảo bước chạy nhanh về phòng giam của chúng như những tù nhân khác trong trại. Cái bị cói ông ngoại xách thấy nặng thế mà mấy đứa trẻ mang như bay. Bác già cầm quạt nan che lên đầu dù là trời sắp tối, chậm chạp đi vào phòng bệnh. Bác ở tù đến năm thứ muời bảy và vì là tù binh không có án cho nên bác cũng không biết đến bao giờ mới hết. Bác không thuộc một chế độ nào nữa cả, bác thuộc về lịch sử.”
Sau những năm tháng tù đày, tuy sức lực không còn như những năm đầu cầm bút, nhưng tư tưởng, bút pháp của Thảo Trường sâu sắc, và dường như đến gần hơn với cái thuyết hiện sinh. Và dù ông không thuộc về chế độ nào nữa, nhưng văn thơ cũng như con người ông sẽ thuộc về lịch sử. Đúng như những trang văn của ông đã dự báo vậy.
*Hiện thực xã hội sau chiến tranh.
Có thể nói, lúc nào cũng vậy, văn thơ Thảo Trường luôn gắn liền với thân phận đất nước và con người. Những hiện tượng xã hội đã và đang xảy ra là chất liệu để ông vẽ nên những bức tranh chân thực và sinh động. Nếu cuộc chiến ý thức hệ ở: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp đã kết thúc bằng tháng 4-1975, thì đến với truyện ngắn Hộ Khẩu Ở Ngoại Thành, Thảo Trường cho ta thấy: “Thua chưa hẳn đã là thất bại”. Đây là một trong những truyện ngắn độc đáo, tiêu biểu nhất về tư tưởng, bút pháp ở thời điểm này của Thảo Trường. Thông qua những mảng ghép thân phận con người và cuộc sống, nhà văn cho ta thấy giá trị con người và đạo đức xã hội đã bị đảo lộn tùng phèo sau 1975. Tình yêu, sự chiếm hữu đoạt, hay bán mua của nữ bộ đội (đã có chồng) với một cựu sĩ quan tù cải tạo (VNCH) dưới bút pháp phúng dụ ta có thể thấy, chiếm đoạt không phải đã là chiến thắng trong trận chiến này: “Bắt được tù binh mà để sổng thì uổng lắm. Chiến thắng mất cả ý nghĩa. Phải giữ cho bằng được thì thắng lợi mới toàn diện và triệt để… Anh nên ở lại đây với em, anh mà ở lại đây thì em sẽ cung phụng anh theo tiêu chuẩn Trung Ương Đảng, còn hơn cả tiêu chuẩn hưởng thụ của các đồng chí trong Bộ Chính Trị nữa cơ. Chúng ta sẽ là Trung Ương Đảng và là ông bà ngọai của các cu tý tiến sĩ thời đại.”. Không dừng lại ở đó, bằng phép so sánh, hình ảnh rừng rú, vô học của người chiến thắng hiện lên một cách trào lộng. Và ngưng tiếng súng không hẳn đã hết chiến tranh, mà cái mâu thuẫn ấy, dường như nó vẫn còn luẩn quất đâu đó trong lòng người: “Em cũng đâu có muốn bỏ tù anh, nếu quyền bính trong tay, thì em đã giam giữ anh ở nhà em cơ”. Đọc những lời thoại, câu văn trào phúng nhẹ nhàng, sâu sắc này của Thảo Trường, chợt làm tôi nhớ đến giọng văn trào phúng Trần Kỳ Trung, người Hội An. Đây là hai nhà văn có những tác phẩm mang tính trào phúng hay, và cho tôi nhiều cảm xúc trong thời gian gần đây. Và đoạn trích mang tính tự sự dưới đây của người nữ bộ đội về tình nhân (một Sĩ quan VNCH vừa tù cải tạo ra), không chỉ chứng minh điều đó, mà còn cho ta thấy lối kể chuyện độc đáo, xen lẫn tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Thảo Trường:
“Bà nhìn người tình nhân nằm bên cạnh đang lim dim đôi mắt nhìn lên con nhện chăng tơ trên trần nhà. Đôi mắt chàng ôi chao sao mà quyến rũ mê hồn, bà chưa thấy đôi mắt nào có hấp lực với bà như thế. Bà chợt nhận ra rằng đôi mắt của chồng bà và cả những gì khác nữa của ông cũng đều…tầm thường không thể chịu được. Bà đã không nhìn ra những cái vô duyên của chồng. Cái mặt hô vô duyên, cái tóc bù xù vô duyên…Bà thấy chồng bà in hệt các anh lớn ở trên, từ bác cho đến các anh cả, anh hai, anh ba…anh mười, anh nào cũng giống nhau tai tái, vô duyên… Anh thì xuất thân là một tay hoạn lợn, anh thì làm bồi phòng dưới tầu thủy, anh cạo mủ cao su trong các đồn điền Tây thuộc địa, anh thì đi ở, thế mà các anh ấy nhảy lên ngôi vị đứng đầu cả nước”.
Những tình tiết, nhân vật đan xen, chồng chéo làm cho nhiều tình huống trở nên bất ngờ. Song Thảo Trường vẫn giữ được lời văn tự sự sâu sắc, nhẹ nhàng. Do vậy, cùng với những hình ảnh ẩn dụ tác phẩm Hộ Khẩu Ở Ngoại Thành không chỉ chuyển tải được nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội, mà còn cho người đọc có sự tưởng tượng và suy luận đa chiều. Thật vậy, với nghệ thuật phúng dụ, hình ảnh anh bộ đội giải phóng mù lòa, phải vịn vào vợ người lính VNCH đã tử trận dẫn dắt là khung cảnh xã hội đã đi đến sự bần cùng của bế tắc. Và nó chứng minh cái tư tưởng (thua chưa hẳn đã thất bại) như Thảo Trường đã hình tượng hóa:
“ Nghĩ cho cùng, mọi tội lỗi cũng chỉ do đôi mắt sáng. Vì có mắt anh thành tên xâm lược, vì có mắt anh thành kẻ buôn lậu, cũng vì có mắt anh mới là một tên ma cô theo đuôi những tên ma cô ăn chơi đàng điếm. Nay đôi mắt sáng không còn, anh không nhìn thấy gì nữa, anh không còn khả năng tác yêu tác quái, anh bị lùa về một góc cuộc đời và anh trở thành người hiền lành an phận. Anh trở thành người tình đáng yêu của chị. Chị xoa xà phòng thơm cho anh, thứ xà phòng ngoại của khách Việt kiều cho, anh sẽ thơm tho, anh sẽ đẹp đẽ…“
Viết nhiều và đầy nội lực như vậy, song dường như những tác phẩm của Thảo Trường rất hạn chế phổ biến, đăng tải trên mạng, sách báo điện tử. Vì khoảng cách địa lý, do vậy rất khó khăn cho độc giả, hoặc những người muốn tìm hiểu, nghiên cứu về ông. Do vậy, tôi hoàn toàn chưa có ý nghĩ sẽ viết ngay về ông. Nhưng đọc đến truyện ngắn Những Đứa Trẻ Đầu Thai Giữa Hàng Rào, và Hộ Khẩu Ở Ngoại Thành đột nhiên cái chất trào phúng Thảo Trường cho tôi một cảm xúc rất lạ. Mỗi mảnh vỡ của chiến tranh, của con người như đang được ông tìm bới và ghép lại vậy. Và tôi buộc phải cầm bút, không thể không viết. Có lẽ, đây chỉ là một vài cảm xúc nhỏ lọt vào cõi văn Thảo Trường mà thôi. Cái cảm xúc bất chợt ấy, chưa hẳn đã chạm đến được tài năng, và tư tưởng, hồn vía Thảo Trường. Song nó như một lời tri ân gửi đến ông của kẻ hậu sinh vậy.
Đỗ Trường